Những điểm mới của Luật Đầu tư năm 2020 tác động tới môi trường đầu tư, kinh doanh của việt nam.
- Những điểm mới quan trọng của Luật Đầu tư năm 2020 ảnh hưởng tới môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam
Môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam sẵn có nhiều lợi thế về vị trí địa lý, nguồn lao động, sự ổn định chính trị nhưng vẫn còn nhiều hạn chế liên quan đến cơ chế hành chính, chính sách pháp lý, cơ sở hạ tầng. Trong những năm gần đây, Đảng và Chính phủ đang nỗ lực không ngừng để gỡ bỏ những “nút thắt” này, trước hết từ việc sửa đổi hệ thống văn bản pháp quy về lĩnh vực đầu tư. Theo đó, Luật Đầu tư năm 2020 có rất nhiều những điểm mới quan trọng, tác động mạnh mẽ đến môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam.
Một là, cắt giảm ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
So sánh Phụ lục IV Luật Đầu tư năm 2020 với Phụ lục 4 của Luật Đầu tư năm 2014 dễ dàng nhận thấy số lượng ngành, nghề kinh doanh có điều kiện đã giảm đáng kể (từ 267 xuống còn 227 ngành, nghề). Nhiều ngành, nghề đã được gỡ bỏ điều kiện kinh doanh như: Dịch vụ Logistic; nhượng quyền thương mại; dịch vụ xét nghiệm HIV; dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về môi giới bất động sản… Cơ sở để cắt giảm các ngành nghề này đó là xem xét tính ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Nếu không chứng minh được “ảnh hưởng trực tiếp” thì trao quyền lựa chọn, sàng lọc, quyết định hàng hóa, dịch vụ của những ngành, nghề này cho thị trường, trên cơ sở chất lượng đầu ra của sản phẩm, dịch vụ. Sự thay đổi này, đã giúp tiết kiệm đáng kể thời gian, công sức, vật chất của nhà đầu tư khi lựa chọn kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình gia nhập thị trường của người dân và doanh nghiệp.
Thứ hai, tăng cường ưu đãi, hỗ trợ đầu tư
Luật Đầu tư năm 2020 đã bổ sung toàn diện từ đối tượng được hưởng ưu đãi; ngành, nghề được ưu đãi đến hình thức ưu đãi đầu tư.
- Về đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư, bên cạnh các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư liên quan đến địa bàn, ngành nghề, quy mô vốn, Luật Đầu tư năm 2020 bổ sung thêm một số đối tượng mới như: “Dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội”, “Dự án đầu tư khởi nghiệp sáng tạo”, đầu tư kinh doanh liên quan đến sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Về ngành, nghề ưu đãi đầu tư, Luật Đầu tư năm 2020 đã bổ sung một số ngành nghề trong danh mục ưu đãi như: giáo dục đại học; bảo quản thuốc; sản xuất trang thiết bị y tế; sản xuất sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học, công nghệ… Sự bổ sung này nhằm bảo đảm thu hút đầu tư một cách có chọn lọc, chất lượng và bền vững; đặc biệt phù hợp với bối cảnh dịch bệnh chưa thể ngăn chặn dứt điểm trên toàn thế giới.
- Về hình thức ưu đãi đầu tư, bên cạnh ba hình thức ưu đãi đã được quy định tại Luật Đầu tư năm 2014, Luật Đầu tư năm 2020 bổ sung hình thức “Khấu hao nhanh, tăng mức chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế”. Hình thức ưu đãi này tác động trực tiếp, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp; giúp cho các nhà đầu tư nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư trong những năm đầu sử dụng tài sản cố định, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình và có thể liên tục đổi mới kỹ thuật, công nghệ.
Hơn thế nữa, lần đầu tiên trong luật quy định về “ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đặc biệt” (Điều 20) “nhằm khuyến khích phát triển một số dự án đầu tư có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội”. Việc cho phép Chính phủ có quyền quyết định việc áp dụng các yếu tố đặc biệt này sẽ tạo ra một cơ chế mở, linh động, kịp thời thu hút dòng vốn FDI đang dịch chuyển nhanh chóng trong bối cảnh hiện nay.
Thứ ba, thay đổi tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ đối với nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 23 Luật Đầu tư năm 2020, tổ chức kinh tế phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế khác; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế khác; đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC nếu tổ chức kinh tế đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(a) Có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh;
(b) Có tổ chức kinh tế quy định tại điểm (a) nắm giữ trên 50% vốn điều lệ;
(c) Có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại điểm (a) nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.
Như vậy, tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế vốn đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam đã giảm từ 51% xuống 50%. Đây tưởng chừng là một thay đổi không đáng kể, nhưng thực chất tác động lớn đến các nhà đầu tư nước ngoài trong các tổ chức kinh tế tại Việt Nam. Theo các quy định tại Điều 80, Điều 145, Điều 148 Luật Doanh nghiệp năm 2020, việc nắm giữ trên 50% vốn điều lệ được coi là nắm quyền chi phối doanh nghiệp, bởi vì tỷ lệ 50% vốn điều lệ là đủ điều kiện để cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành và thông qua các Nghị quyết quan trọng của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông. Do vậy, sự thay đổi của Luật Đầu tư năm 2020 về tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ đối với nhà đầu tư nước ngoài sẽ chấm dứt tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn cơ cấu giao dịch theo hướng: chỉ nắm giữ trên 50% nhưng dưới 51% vốn điều lệ nhưng vừa có quyền chi phối doanh nghiệp vừa được đối xử như nhà đầu tư trong nước khi góp vốn, mua cổ phần của công ty khác.
Thứ tư, cải cách thủ tục đầu tư
Một thay đổi nổi bật về thủ tục đầu tư đó là bổ sung quy định về hình thức lựa chọn nhà đầu tư, bao gồm: (1) Đấu giá quyền sử dụng đất; (2) Đấu thầu lựa chọn nhà đẩu tư; (3) Chấp thuận nhà đầu tư. Quy định này đã tạo ra sự đồng bộ, thống nhất giữa Luật Đầu tư và hàng hoạt các đạo luật khác như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu…; đồng thời, tháo gỡ được vướng mắc tồn đọng về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh có sử dụng đất.
Bên cạnh đó, Luật Đầu tư năm 2020 đã phân định rõ ràng thủ tục pháp lý chấp thuận chủ trương đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư. Hay nói cách khác, trong thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư không có nội dung chấp thuận nhà đầu tư mà tách biệt hai thủ tục pháp lý này.
Theo quy định tại Điều 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36 Luật Đầu tư năm 2020, đối với dự án bắt buộc phải chấp thuận chủ trương đầu tư thì phải tiến hành thủ tục chấp thận chủ trương đầu tư trước sau đó mới tiến hành thực hiện lựa chọn nhà đầu tư. Duy nhất trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 29 thì Cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời lựa chọn chấp thuận nhà đầu tư, cụ thể:
“a) Nhà đầu tư có quyền sử dụng đất, trừ trường hợp Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật và đất đai;
- b) Nhà đầu tư nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
- c) Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao;
- d) Trường hợp khác không thuộc diện đấu giá, đấu thầu theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, Luật Đầu tư năm 2020 đã quy định tách biệt chấp thuận chủ trương đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư là hai thủ tục độc lập, chỉ duy nhất trường hợp tại Khoản 4 Điều 29 thủ tục chấp thuận đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư thực hiện đồng thời với nhau.
Về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đã được phân cấp hợp lý và loại bỏ tính hình thức triệt để hơn, theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được bổ sung thêm quyền chấp thuận chủ trương đối với dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh sân gôn; các dự án có vốn nước ngoài tại địa bàn biên giới, ven biển, ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng… Các dự án đầu tư của hộ gia đình, cá nhân có giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nhưng không thuộc diện phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về đất đai thì không cần phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư.
Thứ năm, Luật Đầu tư năm 2020 đã có nhiều thay đổi về bảo đảm thực hiện dự án đầu tư theo hướng có lợi cho nhà đầu tư.
- Về bảo lãnh ngân hàng về nghĩa vụ ký quỹ để bảo đảm thực hiện dự án đầu tư: Theo quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật Đầu tư năm 2020, nhà đầu tư được lựa chọn ký quỹ hoặc thực hiện bảo lãnh ngân hàng về nghĩa vụ ký quỹ để bảo đảm thực hiện dự án đầu tư. Như vậy, thay vì chỉ có một biện pháp là ký quỹ như Luật Đầu tư năm 2014 thì Luật Đầu tư năm 2020 có bổ sung biện pháp bảo lãnh ngân hàng về nghĩa vụ ký quỹ để thực hiện dự án, đây là một điểm mới thuận lợi hơn cho nhà đầu tư cũng như lợi ích chung của nền kinh tế. Trước đây chỉ có một hình thức ký quỹ, trong khi các dự án kinh doanh bất động sản kéo dài từ lúc được chấp thuận chủ trương đầu tư đến khi dự án hoàn thành dự án có thể mất 05 năm đến 10 năm và số tiền ký quỹ là rất lớn, chiếm từ 1% đến 3% vốn đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014, dẫn đến số tiền trên không được đưa vào lưu thông là một sự lãng phí lớn cho nhà đầu tư và cho xã hội.
Đặc biệt Luật Đầu tư năm 2020 quy định bốn trường hợp nhà đầu tư không phải ký quỹ thực hiện dự án đầu tư gồm:
- a) Nhà đầu tư trúng đấu giá quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê;
- b) Nhà đầu tư trúng đấu thầu thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất;
- c) Nhà đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trên cơ sở nhận chuyển nhượng dự án đầu tư đã thực hiện ký quỹ hoặc đã hoàn thành việc góp vốn, huy động vốn theo tiến độ quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư;
- d) Nhà đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư trên cơ sở nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của người sử dụng đất khác.
Đây là điểm mới rất có lợi cho nhà đầu tư trong quá trình triển khai dự án đầu tư, tránh phải ký quỹ thực hiện dự án không cần thiết và giúp nhà đầu tư sử dụng vốn đầu tư hiệu quả hơn trong quá trình triển khai dự án đầu tư.
Thứ sáu, với mục tiêu phát triển các dự án khởi nghiệp sáng tạo, Luật Đầu tư năm 2020 đã đặt ra một ngoại lệ về thủ tục đầu tư đối với trường hợp nhà đầu tư nước ngoài tham gia thành lập doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo và quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ thể, theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 22, đối với các trường hợp này, nhà đầu tư nước ngoài không cần phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trước khi thành lập tổ chức kinh tế.
Thứ bảy, một cải cách đơn giản nhưng thực sự cởi trói cho các nhà đầu tư, tôn trọng quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư, rất đáng ghi nhận trong Luật Đầu tư 2020 đó là: bỏ chế độ báo cáo tháng về tình hình thực hiện dự án đầu tư đối với các nhà đầu tư, tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư.
- Đánh giá tác động của Luật Đầu tư năm 2020 tới môi trường kinh doanh, đầu tư Việt Nam và khuyến nghị pháp lý với các nhà đầu tư
2.1. Đánh giá tác động của Luật Đầu tư năm 2020 tới môi trường kinh doanh, đầu tư Việt Nam
Những thay đổi của Luật Đầu tư năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành được cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư đón nhận và đánh giá tích cực. Bên cạnh đó, việc kiểm soát tốt dịch Covid 19 của Việt Nam là một cơ hội để khẳng định với thế giới: Việt Nam là một điểm đến đầu tư an toàn. Các thay đổi tích cực về chính sách đầu tư phù hợp với tinh thần các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã tham gia cũng nâng cao điểm số về khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam trên các bảng xếp hạng quốc tế. Luật Đầu tư năm 2020 đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động đầu tư, kinh doanh của Việt Nam như sau:
Thứ nhất, việc cắt giảm bớt các ngành nghề kinh doanh có điều kiện là một động thái quyết liệt của các nhà làm chính sách, việc này sẽ tác động mạnh theo hướng khuyến khích nhà đầu tư tự làm, tự chịu trách nhiệm, góp phần nhanh chóng tạo các động lực mới cho nền kinh tế phát triển bền vững hơn. Trong thời gian tới, nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam sẽ tiếp tục được tăng cường, đặc biệt đầu tư vào các dự án khởi nghiệp sáng tạo.
Thứ hai, với các bước thay đổi mạnh mẽ từ cơ chế kiểm soát sang cơ chế tự chịu trách nhiệm với các gỡ bỏ mạnh mẽ về thủ tục đầu tư, chúng ta kỳ vọng các dòng vốn nhàn rỗi sẽ được huy động mạnh mẽ hơn nữa cho sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, việc đồng ý để Chính phủ quyết định các chính sách ưu đãi đặc biệt là một động thái chính sách mang tính chất bước ngoặt quan trọng trong việc nhanh chóng tạo các lợi thế quan trọng trong việc tạo ra môi trường cạnh tranh năng động trong khu vực và toàn cầu, tạo điều kiện thu hút mạnh mẽ hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài và trong nước trong công cuộc phát triển bền vững nền kinh tế.
2.2. Khuyến nghị pháp lý với các nhà đầu tư
Để phát huy năng lực của các nhà đầu tư, chúng tôi có một số khuyến nghị nhằm giúp các nhà đầu tư nắm bắt nhanh và tận dụng tốt sự thay đổi của chính sách đầu tư như sau:
Trước hết, các nhà đầu tư cần cập nhật thường xuyên quy định pháp luật và chính sách của địa phương.
Có thể thấy, trong những năm gần đây, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến doanh nghiệp và đầu tư thường xuyên được thay đổi và hoàn thiện; song song với đó, từng địa phương cũng ban hành những chính sách riêng theo từng thời kỳ để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Do vậy, nếu không nắm bắt được những sự biến đổi này, các nhà đầu tư có thể bỏ lỡ những cơ hội đầu tư tiềm năng, những ưu đãi đầu tư thiết thực cũng như phải chi trả nguồn chi phí không đáng có cho những điều kiện kinh doanh đã được gỡ bỏ.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư cần đặc biệt lưu ý, ưu đãi đầu tư được áp dụng cho tất cả các dự án đủ điều kiện, nhưng phải trên cơ sở doanh nghiệp, nhà đầu tư tự xác định và đề nghị chấp thuận. Vì thế, các doanh nghiệp cần thiết phải xây dựng bộ phận pháp chế doanh nghiệp, hoặc thông qua một đơn vị cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật thường xuyên, để có thể thích nghi với sự thay đổi của chính sách pháp luật, tận dụng ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước và đón đầu xu hướng đầu tư kinh doanh, chủ động nắm bắt các chủ trương, chính sách pháp luật mới đảm bảo tham mưu tốt cho lãnh đạo doanh nghiệp trong việc tối ưu hóa các nguồn lực cho doanh nghiệp mình.
Thứ hai, tham gia vào hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Lần đầu tiên trong lịch sử của Luật Đầu tư, các chế định về hỗ trợ khởi nghiệp không còn quy định chung chung, mà được cụ thể hóa thành các quy định về ưu đãi, hỗ trợ đối với các dự án khởi nghiệp sáng tạo, cũng như được cụ thể hóa trong hàng loạt các văn bản hướng dẫn trong những năm gần đây. Chúng tôi đề nghị, các nhà đầu tư trong chiến lược phát triển của mình, đặc biệt quan tâm và tận dụng tốt chính sách ưu đãi nêu trên cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp mình.
Tất cả những phân tích nêu trên cho thấy rằng, khởi nghiệp sáng tạo đang là một điểm sáng đầy tiềm năng, được Đảng, Chính phủ và toàn xã hội quan tâm, được ưu tiên đặc biệt để phát triển trong giai đoạn này. Do vậy, những “start-up”, những bạn trẻ đang mang trong mình các ý tưởng, mô hình kinh doanh mới mẻ, cần phải nhanh chóng tận dụng thời cơ này để hiện thức hóa giấc mơ của mình. Với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, nên chuyển dịch vốn đầu tư từ những lĩnh vực đầu tư truyền thống sang đầu tư vào các dự án khởi nghiệp sáng tạo.
Trên đây là những quan điểm, phân tích pháp lý của nhóm tác giả liên quan đến những điểm mới của Luật Đầu tư năm 2020 tác động đến môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam. Chúng tôi hy vọng rằng, những khuyến nghị này sẽ thực sự hữu ích đối với những nhà đầu tư, doanh nghiệp và làm lành mạnh hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.