Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
I. Một số quy định chung về thời hiệu khởi kiện
1. Khái niệm về thời hiệu khởi kiện
Tại Điều 149 BLDS 2015 quy định:
“1. Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.
“1. Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.
Điều 184 BLTTDS 2015 quy định về Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự như sau:
"1. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.
"1. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.
Như vậy, theo các quy định trên thì thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện được thực hiện theo quy định của BLDS năm 2015. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Do pháp luật có những quy định khác nhau về thời hiệu khởi kiện nên để xác định đúng thời hiệu khởi kiện, phải xác định quan hệ tranh chấp đó có được văn bản pháp luật nào khác quy định về thời hiệu khởi kiện hay không, Mặt khác, phải xác định đúng ngày nào được coi là ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm để bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện.
2. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại Điều 155 của BLDS năm 2015 thì Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:
- Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
- Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
- Trường hợp khác do luật quy định.
Theo quy định tại Điều 155 của BLDS năm 2015 thì Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:
- Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
- Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
- Trường hợp khác do luật quy định.
3. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự
Theo Điều 156 của BLDS năm 2015, Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
- Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. Trong đó:
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.
- Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:
+Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;
+Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
Theo Điều 156 của BLDS năm 2015, Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
- Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. Trong đó:
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.
- Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:
+Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;
+Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
1.4. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Khoản 1 Điều 157 BLDS năm 2015 quy định về Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự như sau:
"1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:
a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
b) Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
c) Các bên đã tự hòa giải với nhau.
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều này”.
II. Thời hiệu khởi kiện đối với một số tranh chấp dân sự
1. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng
Điều 429 BLDS 2015 quy định “thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Về nguyên tắc, thời hiệu khởi kiện này được áp dụng đối với những hợp đồng đã có hiệu lực và trong quá trình thực hiện hợp đồng phát sinh tranh chấp.
Tuy nhiên, theo Điều 462 BLDS 2015 quy định hợp đồng có điều kiện là loại hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một sự kiện nhất định. Liên quan đến hiệu lực của hợp đồng có điều kiện phát sinh, BLDS chưa quy định rõ. Từ đó, dẫn đến việc áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với loại hợp đồng này theo quy định tại Điều 429 BLDS tồn tại những bất cập nhất định.
2. Thời hiệu thừa kế
Về thời hiệu thừa kế, theo quy định tại Điều 623 của BLDS năm 2015 thì:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, mốc thời gian để tính thời hiệu thừa kế là thời điểm mở thừa kế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 611 của BLDS năm 2015 thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của BLDS năm 2015.
Hiện nay, về cách tính thời hiệu thừa kế đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/01/2017 (ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực), thấy rằng:
– Tại khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015 quy định như sau: “1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau: d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.”
– Tại Tiểu mục 1 Mục III Công văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của TANDTC giải đáp một số vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự hướng dẫn: “… Kể từ ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-01-2017…”
Tại khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn: “Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 là các trường hợp trong BLTTDS năm 2015 chưa quy định nhưng đã được quy định trong Nghị quyết này, các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. “Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” quy định trong Nghị quyết này là:
a) Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do “thời hiệu khởi kiện đã hết” nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
b) Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
– Tại Mục I về dân sự Công văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của TANDTC giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ có hướng dẫn:
“Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.”
3.Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại Điều 588 của BLDS năm 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
4.Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu
Theo quy định tại khoản 1 Điều 132 của BLDS năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đối với: [1] giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;[2] giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn; [3] giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; [4] giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình và [5] giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 02 năm, kể từ ngày:
“a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức”.
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
III. Thực trạng áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện
Để đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng dân sự cần phân tích, làm rõ qua vụ án: Tranh chấp hợp đồng tiền vay giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị D với bị đơn bà Trần Thị U.
Tóm tắt nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn bà D trình bày: Theo tờ biên nhận nợ ngày 15/10/2016, bà D có cho bà U vay số tiền 200.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 2%/tháng, thời hạn vay là 18 tháng. Từ ngày 15/11/2016 đến ngày 15/02/2017, bà U có trả lãi cho bà D được 04 lần với số tiền 12.000.000 đồng. Sau thời gian đó cho đến nay bà U không đóng lãi và trả lại vốn cho bà D như thỏa thuận nên phát sinh tranh chấp. Quá trình cho vay, bà D đã nhiều lần đến gặp bà U để yêu cầu trả nợ, nhưng không có lập văn bản. Ngày 20/8/2021, bà D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà U trả số tiền 200.000.000 đồng tiền gốc và 150.000.000 đồng tiền lãi (lãi tạm tính tử ngày bà U vi phạm nghĩa vụ là ngày 16/3/2017 đến 20/8/2021) và lãi phát sinh đến thời điểm xét xử theo mức lãi suất quy định của pháp luật.
Theo biên bản ghi lời khai ngày 10/5/2022 của Tòa án (trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc), bị đơn U trình bày: Thừa nhận có vay nợ như bà D trình bày. Tuy nhiên, do thời gian đã lâu, bị đơn không có khả năng trả lãi nên yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện để giải quyết vụ án nêu trên.
Đối với vụ án nêu trên, theo quy định khoản 2 Điều 155 của BLDS năm 2015 thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong trường hợp “yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Do đó, đối với yêu cầu đòi lại tài sản (nợ gốc) thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, đối với khoản tiền lãi thì áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Vấn đề pháp lý đặt ra đối với việc giải quyết phần lãi suất:
Thứ nhất, đối với khoản tiền lãi suất có thuộc trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, vụ án nêu trên không thuộc trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Bởi lẽ, mặc dù ngày 10/5/2022 bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ đối với nguyên đơn, tuy nhiên, sự thừa nhận này của bị đơn ở trong giai đoạn Tòa án đang giải quyết vụ án, tức là sau khi nguyên đơn khởi kiện VADS, nghĩa là thời hiệu khởi kiện chỉ được bắt đầu lại nếu bị đơn thừa nhận nghĩa vụ trước ngày 20/8/2021 (ngày nguyên đơn khởi kiện VADS).
Quan điểm thứ hai cho rằng, vụ án nêu trên thuộc trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Lý do là pháp luật không quy định cụ thể sự thừa nhận nghĩa vụ của bị đơn trước hay sau khi nguyên đơn khởi kiện VADS. Do đó, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, cần thiết áp dụng việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện đối với phần lãi suất.
Thứ hai, Tòa án sẽ xử lý như thế nào đối với khoản lãi suất do hết thời hiệu khởi kiện.
Đối với vụ án nêu trên, dù hiểu theo cách nào thì đối với khoản tiền lãi từ ngày vi phạm nghĩa vụ, tức ngày nguyên đơn phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (ngày 16/3/2017) đến ngày có chứng cứ thể hiện bị đơn thừa nhận nghĩa vụ (ngày 10/5/2022) thì đã hết thời hiệu khởi kiện. Vấn đề đặt ra, nếu nguyên đơn vẫn yêu cầu tính lãi đối với giai đoạn lãi này thì Tòa án giải quyết như thế nào. Có nhiều quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Quan điểm này xuất phát từ lập luận khoản tiền lãi gắn liền với yêu cầu khoản tiền gốc. Do đó, không có sự tách bạch về quan hệ tranh chấp và thuộc cùng phạm vi giải quyết vụ án. Thêm vào đó, điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 thì bắt buộc phải đình chỉ toàn bộ giải quyết vụ án nên không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đối với số lãi này chứ không áp dụng trường hợp đình chỉ giải quyết.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Tòa án cần áp dụng linh hoạt điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 theo hướng đình chỉ giải quyết đối với khoản tiền lãi này. Xét về bản chất, Tòa án không tiếp tục giải quyết do hết thời hiệu khởi kiện chứ thật sự yêu cầu của nguyên đơn không phải là không có căn cứ, do đó, để đảm bảo quyền khởi kiện lại của nguyên đơn nếu chính sách pháp luật trong tương lai có sự thay đổi, điều chỉnh thì cần thiết đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn.
IV. Kiến nghị
Từ những bất cập nêu trên có thể đưa ra một số kiến nghị như sau:
Một là, kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về sự kiện xảy ra tại khoản 1 Điều 157 BLDS năm 2015 diễn ra ở giai đoạn nào. Theo đó, cần hướng dẫn các sự kiện được liệt kê khoản 1 Điều 157 BLDS năm 2015 chỉ cần trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc thì bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra các sự kiện nêu trên.
Đối với ví dụ tại Mục III nêu trên, quan điểm của người trình bày như sau: đối với khoản tiền lãi cần bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Một trong những nguyên tắc để giải quyết vụ án là đảm bảo sự công bằng giữa các đương sự. Điều này đồng nghĩa với việc, Tòa án phải hài hòa lợi ích của các bên trong trường hợp pháp luật được hiểu theo những cách khác nhau. Trong trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, pháp luật chỉ dừng lại ở việc liệt kê các trường hợp tương ứng, trong đó có việc bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại. Vấn đề đặt ra là sự thừa nhận của bị đơn được thể hiện trước hay sau khi khởi kiện hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn. Theo quan điểm thứ nhất, thì sự thừa nhận phải diễn ra trước khi nguyên đơn khởi kiện, cách hiểu này là thiệt thòi quyền lợi của nguyên đơn và có sự cứng nhắc. Bởi lẽ, trong vụ án nêu trên, cần đánh giá khách quan rằng việc giao dịch vay tiền giữa các bên là sự thật, nếu nguyên đơn am hiểu pháp luật và khởi kiện sớm hơn thì quyền lợi về việc được chấp nhận phần lãi suất là điều hoàn toàn xảy ra.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có sự cảm thông cho bị đơn nhưng không nhận lại được sự phản hồi tích cực từ bị đơn nên đến ngày 20/8/2021 nguyên đơn mới tiến hành khởi kiện. Thêm vào đó, quá trình ghi nhận ý kiến của bị đơn ngày 10/5/2022 cũng đã thể hiện ý chỉ của bị đơn thừa nhận nghĩa vụ nợ đối với nguyên đơn nên cần vận dụng linh hoạt khoản 2 Điều 156 BLDS năm 2015, thời hiệu khởi kiện VADS bắt đầu lại kể từ ngày 11/5/2022 (tức kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện thừa nhận nghĩa vụ). Cách vận dụng này cũng mang tính hợp lý trong trường hợp nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án, khi đó nguyên đơn được quyền khởi kiện lại vụ án theo Điều 217 BLTTDS năm 2015. Giả sử nguyên đơn khởi kiện lại vào tháng 7/2022 thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn do có biên bản thể hiện ngày 10/5/2022 bị đơn thừa nhận nợ. Chính vì vậy, để giải quyết triệt để yêu cầu của nguyên đơn cũng như vận dụng có hiệu quả quy định pháp luật thì cần bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện đối với phần lãi suất từ ngày 11/5/2022 để đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn cũng như căn cứ vào ý chí của các bên thì không thiệt thòi quyền lợi của bị đơn.
Hai là, kiến nghị TANDTC hướng dẫn khi phần lãi suất đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 đình chỉ giải quyết đối với phần đó, trong trường hợp này Tòa án không phải ra quyết định đình chỉ mà nhận định trong bản án.
Đối với ví dụ tại Mục IV nêu trên, quan điểm của người trình bày như sau: Người trình bày đồng ý với quan điểm thứ hai. Xét về điều kiện thụ lý vụ án thì điều kiện về thời hiệu khởi kiện không còn là căn cứ để Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo Điều 192 BLTTDS năm 2015, nếu quá trình giải quyết vụ án mà thời hiệu khởi kiện đã hết và đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015.
Trong vụ án nêu trên, cần thiết xác định hai mối quan hệ tranh chấp là đòi lại tài sản (đối với khoản nợ gốc) và vay tài sản (đối với khoản nợ lãi), do đó, để đảm bảo việc xử lý tiền tạm ứng án phí có lợi cho nguyên đơn thì nên đình chỉ để họ được nhận lại, còn nếu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn phải chịu án phí. Việc đỉnh chỉ yêu cầu này trong bản án sơ thẩm cũng không ảnh hưởng đến quyền kháng cáo của đương sự cũng như quyền kháng nghị, bởi lẽ, việc đình chỉ này là một phần trong bản án sơ thẩm, do đó các đương sự được quyền kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân được quyền kháng nghị theo quy định pháp luật. Đồng thời, cũng để đảm bảo quyền khởi kiện lại của nguyên đơn nếu chính sách pháp luật trong tương lai có sự thay đổi, điều chỉnh như trưởng hợp hướng dẫn tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP “Trường hợp kể từ ngày 01/01/2012, Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết và thời hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại vụ án đó thì Tòa án xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung”.